Đặc điểm Chi_Mẫu_đơn

Cây bụi hoặc cây thảo sống lâu năm, cao đến 3,5m. Rễ nhiều thịt, mập nhưng thu nhỏ dần về phía chóp, hoặc có dạng củ. Thân (ở cây thảo) hoặc cành con của năm hiện tại (ở cây bụi) thon búp măng, với một số vảy bền ở gốc. Lá mọc cách, lá kép; 1-3 lá ở đầu gần phát triển tốt nhất, 1-3- lá chét 3 hoặc 1- hoặc 2-lá chét 2; các chét lá nguyên hoặc chia nhỏ. Hoa đơn độc và ở đầu cành, hoặc 2 hoặc nhiều hơn trên mỗi chồi và cả đầu cuối và cả ở nách lá, đường kính trên 4 cm. Lá bắc 1-6, dạng lá, thay đổi về hình dạng và kích thước, dần biến thành lá đài. Lá đài 2-9, thay đổi về hình dạng và kích thước. Cánh hoa 4-13, thay đổi về màu sắc. Nhị tới 230; chỉ nhị và bao phấn thay đổi về màu sắc. Đĩa (tiết mật hoặc không) dạng da hoặc mọng thịt, hình khuyên (ở cây thảo) hoặc kéo dài thành bẹ và bao lấy 1/3 đến toàn bộ lá noãn (ở cây bụi). Lá noãn 1-5(- 8), rời, nhẵn nhụi hoặc có lông; noãn nhiều, xếp thành hai hàng dọc theo đường khớp ở mặt bụng. Vòi nhụy có hoặc không; đầu nhụy dẹt bên, uốn ngược, có mào. Quả là quả đại. Hạt màu đen hoặc nâu sẫm, hình cầu hoặc hình trứng-hình cầu, đường kính tới 1,3 cm.[3]

Phần lớn các loài là cây thân thảo thường xanh, cao khoảng 0,5–1,5 m, nhưng một số loài là cây bụi thân gỗ cao tới 1,5–3 m. Chúng có các lá kép, xẻ thùy sâu và hoa lớn, thường có mùi thơm, có màu từ đỏ tới trắng hay vàng, hoa nở vào cuối mùa xuân hay đầu mùa hè. Trong quá khứ, các loài mẫu đơn / thược dược này đã được phân loại trong họ Mao lương (Ranunculaceae), cùng với các loài cỏ chân ngỗnglê lư.